Cần tăng cường cơ sở vậtchất, trang thiết bị, gia tăng nguồn lực khoa học và công nghệ tronglĩnh vực bảo tồn, khai thác, phát triển nguồn gen.
Theo báo cáo của BộKhoa học và Công nghệ, tính đến hết tháng 6/2022, nhiều đề tài khai thác, pháttriển nguồn gen đã và đang được thực hiện trên các đối tượng như: lợn Hạ Lang,lợn Táp Ná, gà Mía, gà Móng (2011-2015); vịt Bầu Bến, vịt Đốm, vịt Kỳ Lừa, vịt Mốc,gà Đông Tảo, gà Tre, gà Chọi; lợn Mường Khương, lợn Mán, lợn Sóc, bò H’Mông(2012-2015); lợn Hung, gà Tè (2012-2014); gà Liên Minh, gà Tiên Yên, bò U ĐầuRìu và gà Cu Roang (2013-2016); lợn Xao Va, vịt Cổ Lũng, gà Cáy Củm, gà Tai đỏ,gà Hắc Phong và gà Tò (2014-2017); lợn Hương, trâu Bảo Yên, gà Lạc Thủy, gàKiến, vịt Sín Chéng (2016-2020); lợn Mẹo, lợn cỏ A Lưới, vịt Hòa Lan, gà Xước,ngan Sen (2017-2020); gà Lạc Sơn, gà nhiều ngón, lợn ỉ, trâu Chiêm Hóa(2018-2021); Rồng đất, trâu Langbiang, lợn H’Mông (bắt đầu từ năm 2020).
Nhóm các dự án sảnxuất thử nghiệm đang thực hiện trên các đối tượng: gà Cáy Củm, gà Liên Minh,ngan Trâu, vịt Minh Hương (2019-2022); gà Hắc Phong, gà Tai đỏ, vịt Cổ Lũng,lợn Táp Ná (bắt đầu từ 2020)…
Nhìn chung, các nhiệmvụ khai thác phát triển nguồn gen vật nuôi đã góp phần phục tráng, hoàn thiệnviệc đánh giá bổ sung một số đặc điểm như di truyền, ngoại hình, đặc tính sinhhọc, sinh sản, dinh dưỡng, thương phẩm, phân bố và khả năng phát triển nhânrộng của nhiều nguồn gen vật nuôi quý hiếm.
Có thể nhận thấy, cácnhiệm vụ khai thác và phát triển nguồn gen vật nuôi đều cho kết quả tốt, đượcứng dụng hiệu quả vào đời sống. Đáng chú ý, sau một thời gian thực hiện, các đềtài nghiên cứu không những đã chọn lọc được đàn hạt nhân mang các đặc trưng củagiống dựa trên các tiêu chuẩn cơ sở mà còn xây dựng được một số quy trình chănnuôi phù hợp với từng đối tượng vật nuôi.
Hiện nay, các dự ánsản xuất thử nghiệm với sự tham gia của doanh nghiệp đã được tiến hành nhằmhoàn thiện quy trình chăm sóc, nuôi dưỡng phù hợp với thực tế và xây dựng cácmô hình sản xuất thương phẩm, góp phần phát triển kinh tế - xã hội, tạo việclàm và tăng thu nhập cho người dân.
Trong 5 năm trởlại đây, công tác cấp phát nguồn gen đã có những bước phát triểnmạnh về số lượng và chất lượng. Trung bình mỗi năm, Trung tâm Tàinguyên thực vật (Viện Khoa học nông nghiệp Việt Nam) cấp khoảng 1.000 mẫugiống. Các mẫu giống được sử dụng có hiệu quả trong nghiên cứu vàkhai thác nguồn gen.
Công tác pháttriển trực tiếp nguồn gen để đưa vào sản xuất tạo hàng hóa làhướng đi được cả hệ thống quan tâm và triển khai. Thông qua kếtquả đánh giá nguồn gen đang được bảo tồn, Trung tâm Tài nguyên thựcvật đã xác định và bình tuyển được nhiều giống cây trồng triểnvọng phục vụ sản xuất như: lúa Tám đa dòng (T3), lúa nếp, lúa chịuhạn, lúa tẻ thơm (LT3), lúa KD19. Một số giống khoai môn sọ như:KS5, KS4, KM-1; giống đậu tương; giống rau địa phương (cải Mào gàHoài Đức, cải ngồng Lạng Sơn, cải Mèo Hòa Bình, húng Láng); giốnghoa; gừng-riềng; giống khoai lang ăn củ, khoai lang ăn lá làm rau dinhdưỡng. Các giống khoai sọ KS4, giống hoa Đuôi chồn đỏ đã được côngnhận là giống quốc gia. Ba giống khoai lang rau (KLR1, KLR3, KLR5) vàkhoai môn nước KM-1 đã được công nhận sản xuất thử.
Nhiều giống đangđược Trung tâm Tài nguyên thực vật khai thác để phát triển đưa vàosản xuất hàng hóa như: Lúa dự thơm Thái Bình, lúa Di hương HảiPhòng, lúa Khẩu ký, lúa Khẩu nậm pua; bí xanh Chữ thập, mướp đắng,củ từ Bon Nghệ An, khoai sọ muộn Yên Thế, bưởi Quế Dương, bưởiđường Hiệp Thuận, hồng Yên Thôn...
Ông Nguyễn Đình Hậu,Vụ trưởng Vụ Khoa học và Công nghệ các ngành kinh tế kỹ thuật (Bộ Khoa học vàCông nghệ) cho biết, thời gian qua, 42 nguồn gen vật nuôi bản địa ViệtNam được Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Bộ Khoa học và Côngnghệ, các cơ quan có thẩm quyền phê duyệt cho phép khai thác, pháttriển dạng thuần. Việc phát triển, tăng cường hiệu quả sử dụng cácnguồn gen vật nuôi bản địa góp phần cung cấp nguyên liệu di truyềnphục vụ phát triển ngành chăn nuôi, đưa nhanh ra sản xuất đó làphát huy ưu thế lai giữa các nguồn gen bản địa và nhập nội.
Điều này khẳng địnhthêm vai trò, tầm quan trọng của công tác bảo tồn lưu giữ nguồn genvật nuôi bản địa Việt Nam. Đáng chú ý, một số nguồn gen chỉ đượcbảo tồn ở một nơi hoặc bảo tồn trên địa bàn hẹp sẽ dễ mất nguồn genkhi có dịch bệnh hoặc thiên tai xảy ra.
Tại Việt Nam, để bảotồn, sử dụng bền vững nguồn gen gắn liền với bảo tồn đa dạng sinh học, từ nayđến năm 2025, Bộ Khoa học và Công nghệ tiếp tục thực hiện Chương trình bảo tồnvà sử dụng bền vững nguồn gen đến năm 2025, định hướng đến năm 2030, bằng nhữngcông nghệ truyền thống.
Giai đoạn từ2025-2030 sẽ định hướng nâng cấp, tích hợp công nghệ phục vụ công tác bảo tồnvật nuôi nhằm lưu giữ chắc chắn nguồn gen quý trong mọi điều kiện bất lợi, nhânnhanh được nguồn gen cho nhu cầu sản xuất, triển khai thành hàng hóa và bảo tồnbền vững. Có thể nói, công tác bảo tồn nguồn gen đã được quan tâm phát triển vàcó những bước chuyển rõ rệt, đặc biệt một số nguồn gen vật nuôi đã triển khaithành hàng hóa và bảo tồn bền vững. Tuy nhiên, theo đánh giá của Bộ Khoa học vàCông nghệ, do thiếu nguồn nhân lực, kinh phí, nhận thức xã hội về việc bảo tồnquỹ gen còn thấp nên công tác bảo tồn chưa đạt hiệu quả cao.
Công tác đánh giánguồn gen đã được chú trọng nhưng số lượng nguồn gen được bảoquản, lưu giữ còn ít so với trên thế giới. Công tác phân lập,tuyển chọn nguồn gen vi sinh vật hiện nay đang tập trung theo hướngphục vụ khai thác sử dụng chứ chưa đánh giá được tính đa dạng củanguồn gen theo tính chất đất, loại cây trồng và theo vùng sinh thái...Đặc biệt, nguồn gen vi sinh vật được đưa vào khai thác, sử dụng trongsản xuất phân bón, chế phẩm vi sinh vật và phòng trừ dịch hại cònít, chưa đáp ứng thực tế sản xuất nông nghiệp bền vững và bảo vệmôi trường Việt Nam.
Hiện nay, cơ sở dữliệu nguồn gen bước đầu đã được xây dựng, tuy nhiên chưa xây dựngđược mạng lưới nguồn gen trong cả nước tham gia vào mạng lướinguồn gen nói chung, nguồn gen nông nghiệp trong khu vực và trên thếgiới nên việc giới thiệu, quảng bá, khai thác sử dụng nguồn gen cònhạn chế.
Vì vậy, cần tăngcường cơ sở vật chất, trang thiết bị, nâng cấp và trang thiết bịbảo tồn, đánh giá nguồn gen, hệ thống bảo quản, nhà lưới; gia tăngnguồn lực khoa học và công nghệ trong lĩnh vực bảo tồn, khai thác, pháttriển nguồn gen, tạo điều kiện để cán bộ thực hiện nhiệm vụ tiếp cậncác nguồn thông tin, chia sẻ thông tin, kinh nghiệm, phương pháp, kỹthuật trong bảo tồn, đánh giá tuyển chọn và khai thác nguồn gen tạiViệt Nam cũng như trên thế giới...