Cácgen AVR (avirulence genes) của vi nấm Magnaporthe oryzae, tác nhân gây bệnhđạo ôn trên cây lúa, đã và đang được tư liệu hóa để trở thành những chủđề mục tiêu trong nghiên cứu đột biến gen trong tính kháng bền vững bệnh đạo ônlúa. Theo nghiên cứu này, một công cụ chẩn đoán gen AVR trong xác định phổgây độc tính của một quần thể pathogen của bệnh đạo ôn nào đó, đã được người taphát triển và làm rõ cơ chế kháng. Người ta sưu tập 77 mẫu phân lập của nhưngđơn bào tử nấm gây bệnh (pathotype) để phân tích thông qua việc sử dụng cácdòng lúa chuẩn kháng với từng gen đơn R, sau đó, phân ra được 20 pathotypes cóđộc tính, ngoài trừ 4 mẫu phân lập không thể hiện tính gây bệnh cho lúa(pathogenicity). Mười dòng lúa chuẩn kháng thể hiện tần suất kháng thấp (<24%)trong khi đó, có tám dòng lúa chuẩn kháng thể hiện tần suất kháng cao(>95%), biểu thị mối liên hệ với mức độ hiệu quả của các gen R có trong từngdòng chuẩn kháng ấy. Thêm vào đó, các “haplotypes” của bảy gen AVR cũng được xác địnhbằng PCR và giải trình tự. Tần suất tính toán được của các gen AVR khác nhau đóng vaitrò biến thiên rất khác nhau trong quần thể này. Gen AVR-Pi9 được tìm thấy trong100% mẫu phân lập, và gen AVR-Pii có trong 84,9% mẫu phân lập. Năm gen AVR ví dụ như AVR-Pik [-D (20.5%) và -E(1.4%)], AVRPiz-t (2.7%), AVR-Pita (0%), AVR-Pia (0%), và AVR1-CO39 (0%) biểu hiện tầnsuất thấp hoặc bằng không (0). Tần suất của các gen AVR tương quan với tầnsuất kháng của các gen R có cùng nguồn gốctrong các dòng chuẩn kháng (differential) ngoại trừ IRBLzt-T, IRBLta-K1, vàIRBLkp-K60. Cả kết quả phân tích di truyền và chỉ thị phân tử đều làm rõ genkháng R có tính chất bổ sung (additional R gene), hầu hết đều giống như gen Pi19 hoặc alen của nó, cótrong ba dòng lúa chuẩn kháng. Điều này có thể giải thích được tần suất khángcao, giả của mỗi gen kháng R trên cơ sở đánh giá kiểu hình theo phương pháptruyền thống. Nghiên cứu còn chứng minh rằng việc chẩn đoán bằng phương phápphân tích gen AVR là chính xác, đánh giá được gen R chuyên biệt, và phương phápđánh giá dòng chuẩn kháng có thể được sử dụng để xác định phổ độc tính của vinấm (virulence spectrum) gây bệnh đạo ôn cây lúa. Nó còn giúp chúng ta dự đoánđược mức độ hữu hiệu của các gen kháng R trong giống lúa.